Tháng 4 năm 1954, trong một cuộc họp giữa các đoàn đại biểu Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc chuẩn bị cho hội nghị Geneva về Đông Dương, đại biểu Trung Quốc đã nói: “Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không thể công khai giúp Việt Nam được trong trường hợp cuộc xung đột ở đây được mở rộng”.
Lợi dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp không muốn nói chuyện trên thế yếu với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc đã tự cho phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thoả thuậnn những điểm cơ bản của một giải pháp về vấn đề Đông Dương.
Quá trình đàm phán về thực chất tại hội nghị Geneva diễn ra qua hai thời kì:
Thời kì thứ nhất, từ ngày 8-5 đến ngày 23-6-1954, Trưởng đoàn đại biểu Pháp, trong khi tránh tiếp xúc trực tiếp với Việt Nam đã đàm phán với Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc tới 4 lần.
Đáng chú ý là lần thứ 3, ngày 17 tháng 6 năm 1954, Thủ tướng Chu Ân Lai gặp trrưởng đoàn đại biểu Pháp G.Bi-đô, đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản, có hại cho nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia: Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ Bảo Đại).
Lần thứ 4, ngày 23-6-2954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp Măng-đét Phrăng-xơ, Thủ tướng mới của Pháp, đưa ra những nhượng bộ mới: chia cắt Việt Nam, hai miền Việt Nam cùng tồn tại hoà bình, giải quyết vấn đề quân sự trước, tách rời việc giải quyết ba vấn đề Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia.
Thời kì thứ hai, từ ngày 23-6 đến ngày 20-7-1954, Đoàn dại biểu Pháp tiến hành đàm phán trực tiếp với đoàn đại biểu Việt Nam để giải quyết vấn đề cụ thể. Trung Quốc giữ vai trò thúc đẩy Việt Nam nhân nhượng. Đến ngày 10-7, phía Việt Nam vẫn trì lập trường của mình về vấn dề Việt Nam, Lào, Căm-pu-chia :
- Chủ trương đòi có đại biểu của Lào và Căm-pu-chia trong đàm phán
- Định giới tuyến quân sự ở vĩ tuyến 13
- Tổ chức tổng tuyển cử tự do trong 6 tháng.
Vậy nhưng từ tháng 5-1954, Đoàn đại biểu Trung Quốc còn muốn Việt Nam nhân nhượng nhiều hơn:
- Lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới phân chia
- Muốn Việt Nam bỏ thủ đô Hà Nội, Hải Phòng và đường số 5
Càng về sau, đặc biệt từ ngày 10-7-1954, tức 10 ngày trước khi kết thúc Hội nghị Geneva, Trung Quốc càng thúc ép Việt Nam nhân nhượng nhiều hơn nữa với lời khuyên “không nên làm phức tạp lôi thôi để tránh thảo luận mất thì giờ, rườm rà kéo dài”.
Khi đó Trung Quốc còn lo sợ Mĩ có thể can thiệp bằng vũ lực vào Đông Dương, uy hiếp an ninh Trrung Quốc cũng như lời đe doạ của Mĩ mở rộng chiến tranh Việt Nam.
Sau Điện Biên Phủ, rõ ràng với sự giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Trung Quốc, quân dân Việt Nam có khả năng giải phóng cả nước, nhưng giải pháp mà đoàn đại biểu Trung Quốc đã thoả thuận với Pháp ở Geneva đã không phản ánh so sánh lực lượng trên chiến trường, không đáp ứng được yêu cầu chính trị của Việt Nam. Giải pháp Geneva của Trung Quốc thực tế đã ngăn cản ba nước Đông Dương đi đến thắng lợi hoàn toàn, trở thành nguyên nhân gây ra cái chết cho hàng triệu người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Đó là những điều mà người lãnh đạo Trung Quốc biết hơn ai hết.
Đây là sự phản bội thứ nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc với cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam.
( Theo : Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quổc trong 30 năm qua, 1979, NXB Sự thật, nay là NXB Chính trị quốc gia)